Hầu hết các nước trên thế giới đều có múa rối. Việt Nam, múa rối là một
trong những loại hình nghệ thuật truyền thống. Đến nay nghệ thuật múa
rối Việt Nam đã đạt đến trình độ nghệ thuật có gia trị cao về tinh thần,
là một trong những loại hình sân khấu giải trí hấp dẫn trong đời sống
văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam. Nghệ thuật múa rối dân gian
Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại cùng với Nhà nước văn minh – Nghệ
thuật thời Hùng Vương gắn liền với tập tục nghi lễ, hội hè Việt cổ
cách đây hơn 2000 năm.
Bia “Sùng Thiện Diên linh tự tháp”
Nhưng thực tế cho thấy múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới
1000 năm, nó phát triển mạnh nhất vào thời Lý – Trần (thế kỷ XI – XII).
Hiện vẫn chưa có một tư liệu nào chứng minh được nguồn gốc xuất xứ ra
đời của nghệ thuật múa rối. Duy nhất hiện còn lưu trên Bia “Sùng Thiện
Diên linh tự tháp” có niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) thời Lý
Nhân Tông, có ghi trò múa rối nước biểu diễn mừng thọ Nhà vua. Điều đó
chứng tỏ rằng nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam đã được hình thành từ
bao đời nay, được lưu truyền tồn tại và ngày càng phát triển với nhiều
thể loại như: Rối tay, rối que, rối dây, rối nhà mồ,rối mặt nạ,rối diều
sáo, rối đồ chơi, rối sao, rối bóng,… đặc biệt là múa rối nước. Nội dung
trong tích, trò, vở diễn mang tính chất mua vui, giải trí, gây cười,
hóm hỉnh, hài hước, châm biếm,… Hoạt động của múa rối dân gian Việt Nam,
gắn liền với tín ngưỡng làng xã, một mặt để lễ bái thờ cúng thần linh
– Thần Thành Hoàng mặt khác để góp vui cho khách trảy hội,…Những người
tham gia trong phường rối là các nghệ nhân nghiệp dư, họ là những nông
dân, thợ thủ công vào thời vụ thì cấy cày, làm đủ nghề kiếm sống, lúc
nông nhàn thì tham gia các sinh hoạt nghệ thuật, mỗi phường có một người
đứng đầu gọi là ông Trùm. Ông Trùm tụ tập mọi người (họ là những người
tình nguyện) cùng trao đổi, sáng tác và tập luyện các tiết mục, thống
nhất biểu diễn một số trò,tích theo yêu cầu. Đó là những Phường rối,
gánh rối dân gian được nhân dân thành lập và trân trọng gìn giữ lưu
truyền đến ngày nay. Tiếp thu vốn nghệ thuật truyền thống, những người
hoạt động trong lĩnh vực này đã dành tâm sức, đầu tư, để phát triển hơn
lên nhưng không mất đi cái gốc truyền thống dân tộc.
Nghệ thuật Múa rối dân gian Việt Nam có: Múa rối cạn và múa rối nước.
a. Múa rối cạn:
Nghệ thuật rối cạn dân gian truyền thống
phát triển rộng khắp cả nước với nhiều tên gọi: Miền Bắc: ổi, Lỗi, ổi
lỗi, Khối lỗi, Rối, Múa rối, Trò, Trò máy,… (Việt): Mộc thầu hí (Nùng),
Slương pấtlạp (Tày), Mụa rội (Mường),… Miền Nam: Hát gỗ, Hát hình, …
Múa rối cạn có nhiều thể loại khác nhau
như: Rối tay, rối que, rối dây, rối bóng, rối mặt nạ, rối nhà mồ, rối
lốt,… phần lớn các tích trò thường sử dụng các làn điệu chèo,ca
trù, tuồng, nhạc cung đình,… để dẫn trò, hát đế và biểu diễn
– Rối tay: Ít dùng trên sân khấu,
còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa chiền. Rối tay thường được chế tạo
đầu bằng gỗ, mình khâu vải (không tay), khi điều khiển nghệ nhân lồng
bàn tay vào trong lòng khoét rỗng của đầu hoặc cầm một đoạn cán nối dài
cổ.
– Rối que: Rất phổ biến, nhỏ cỡ
30-35 cm. Đầu tạc liền với mình bằng gỗ, gồm cả tóc, tai, khăn, mũ, bàn
tay bằng gỗ gọt liền cổ tay hoặc rời. Điều khiển bằng que tre, que sắt
cắm vào mình và cổ tay luồn trong áo. Không có chân, cần tạc thêm đính
ngoài. Cũng có nơi, có quân tạo hình cỡ lớn, kiểu hình nhân, đầu mình
đan bằng nan dùng diễn thờ, xong đem đốt. Đặc biệt đồng bào Bana tạc
hình nhân khá lớn bằng gỗ dùng trong lễ bỏ mả và sau lễ bỏ lại trong nhà
mồ.Trên sân khấu, nhiều quân rối dùng thêm dây mềm điều khiển phối hợp
với rối que.
– Rối máy: Rất thông dụng cả
trong đồ chơi, trò chơi và sân khấu. Toàn thân được tạc bằng gỗ riêng
từng bộ phận, nối với nhau bằng khớp lỏng. Thường dùng sơn vẽ mầu thay
trang phục vải. Điều khiển bằng que, dây. Nhiều quân là trò riêng. Dùng
xen với rối tay, rối que. Chuyên dùng trong rối nước, đồ chơi trẻ em,
rối diều, rối gió, rối pháo
– Rối dây : Chỉ thấy
xuất hiện ở vùng biên giới Cao Bằng với tên Mộc thầu hí, Slương pấtlạp,
đầu rối bằng gỗ, mình nan đan, bàn tay gỗ, bàn máy điều khiển bằng tre,
dây tơ, dây gai mềm, không có chân. Rối dùng để diễn trò và tích trò.
Sân khấu thường dựng trên chòi làm sẵn ở các chợ, sòng bạc, …
– Rối bóng: Mới phát hiện, xưa có ở tỉnh Kiên giang, có thể từ Campuchia truyền sang. Nay không còn.
– Rối mặt nạ: Mặt nạ
được làm bằng giấy bồi, xốp, gỗ… được sơn vẽ theo tạo hình nhân vật, khi
diễn có thể dùng tay điều khiển, hoặc đeo lên đầu người diễn.
– Rối lốt: Mới xuất hiện ở Việt Nam những năm gần đây, thường là người mặc lốt nhân vật để biểu diễn.
Ở Việt Nam, nhân vật trên sân khấu rối
rất phong phú, là những nhân vật trong các truyện cổ tích , thần thoại
như Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Phù Đổng, … đến các nhân
vật hiện đại như Cu Tý, bé Rồng, Anh bộ đội kéo pháo,… Hơn nữa trên
sân khấu múa rối những loài động vật, cây cối, nhà cửa, vật dụng… đều có
thể trở thành nhân vật có đời sống sinh động và phong phú. Có thể nói
sân khấu rối “chấp nhận” mọi sự tưởng tượng phong phú. Các con rối đã
biến sự tưởng tượng thành “hiện thực”, không có biên giới ngăn cách cái
thật và cái giả, … vì vậy, có nhiều nhà nghiên cứu đã gọi sân khấu rối
là “Thế giới tuyệt đẹp của tuổi thơ”.
b. Múa rối nước:
Múa rối nước là một trong những loại
hình sân khấu tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam – Thể hiện
trí
tuệ và sự thông minh, sức sáng tạo của con người Việt Nam.Trong xã hội
hiện đại hôm nay, múa rối nước không còn quá xa lạ với quảng đại
quần chúng trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong
những nhân tố giúp múa rối nước định hình, khẳng định và phát triển,
được xếp hạng là một trong những loại hình nghệ thuật có giá trị cao,
mang tính truyền thống trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân
dân Việt Nam.
Thực tế cho thấy, do điều kiện tự nhiên
và công việc của nhà nông, có thể nói rằng: Múa rối nước được xây đắp
hình thành từ tâm tư, tình cảm của người dân lao động, nó tái hiện cuộc
sống và ước vọng của thời đại.Trước kia rối nước chỉ diễn ngoài trời,
sân khấu gắn bó, hòa quyện với thiên nhiên, trong không gian mênh mông,
trời, đất và nước có cây xanh, mây, gió, lửa, có khói mờ vương tỏa, ẩn
hiện mái đình uốn cong và màu ngói đỏ, quả là một sự hòa quyện độc đáo
giữa thiên nhiên và con người. Ngày nay, múa rối nước Việt Nam, không
chỉ bảo tồn mà đã được khai thác sâu, rộng hơn. Hiện nay, cả nước có
18 phường rối nghiệp dư và 5 Nhà hát, đoàn múa rối chuyên nghiệp.Hoạt
động của các phường rối phần lớn vẫn theo hình thức phục vụ hội hè,
đình đám…,các thành viên tham gia chủ yếu là nông dân trong làng, xã. Có
phường các thành viên là ông bà, cha mẹ, vợ chồng con cái dâu rể cùng
trong một gia đình.
Trong những năm gần đây, múa rối Việt
Nam đã mạnh dạn thể nghiệm một số vở diễn với hình thức kết hợp giữa
truyền thống và hiện đại, để đáp ứng và phù hợp với tiến trình phát
triển xã hội hóa đất nước. Với vị thế hiện nay, múa rối nước Việt Nam
được xếp vào hạng là nghệ thuật độc đáo của Văn hóa dân tộc.
– Rối nước là đặc sản văn hóa Việt
– Rối nước là “đặc sản văn hoá” của cư dân trồng lúa nước Việt Nam.
– Rối nước hình thành với hai thành tố cơ bản: rối và nước.
Nếu rối là công trình của nghệ thuật tạc
tượng gỗ dân gian thì nước là một yếu tố quan trọng hàng đầu của nghề
trồng lúa nước (nhất nước, nhì phân, tam cần, tứ giống). Một minh chứng
rõ rệt của cái nôi sinh thành nghệ thuật rối nước là sự tập trung hầu
hết cơ sở rối nước cổ truyền quanh Kinh đô Thăng Long xưa (Thủ đô Hà Nội
ngày nay), trung tâm của vùng đồng bằng Bắc Bộ phì nhiêu, chiếc nôi của
nền văn minh cổ của dân tộc Việt Nam, được đan xen bằng một mạng lưới
sông ngòi chằng chịt, gắn liền với nạn lũ lụt chu kỳ hàng năm. Rối nước
có thể manh nha từ trong công cuộc chế ngự cái tai hoạ thường đe dọa
cuộc sống của cư dân . Nước – tai họa số một trong bốn tai họa Thủy, hoả
, đạo, tặc . Nước -phục vụ sản xuất ra lúa gạo…
Văn hoá Việt Nam mang cội nguồn và bản
sắc của một nền sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lúa nước. Tác dụng tổng
hòa của người – trời – đất đã tạo nên nền nông nghiệp với những cộng
đồng định cư thành làng xã từ hàng nghìn năm trước. Cư dân này đã
từ trồng lúa nước, tạo nên nền văn minh trồng lúa nước: nền văn minh
sông Hồng; nền văn minh Việt Nam cổ xưa này đã tạo nên thế quân bình bền
vững của nền văn hoá xóm làng, giữa con người với tự nhiên. Kỹ thuật sử
dụng trong nghề trồng lúa nước và các ngành nghề phụ quanh nó, một phần
văn hoá nối liền con người với tự nhiên đã góp phần chủ yếu vào sự hình
thành nghệ thuật rối nước.Dùng nước làm sâu khấu cho quân rối hoạt động
là đặc điểm độc đáo của nghệ thuật rối nước. Nước không chỉ là nơi quân
rối làm trò đóng kịch mà còn là yếu tốc cộng minh, cộng sinh, cộng
hưởng. Nước vừa cản trở vừa hỗ trợ, phối với với quân rối. Nước không
chỉ là môi trường, là khung cảnh mà còn như “thầy phù thuỷ” có nhiều
phép thần thông biến hoá đối với nghệ thuật biểu diễn rối.
Quân rối nước chỉ là những công trình
điêu khắc gỗ sơ sài, thô thiển, đường nét cứng, màu sắc nghèo, cử động
gấp khúc, vừa đủ gợi cho người xem nhận thức khái quát về người, về vật,
… Nhưng nước đã dùng đặc tính lỏng và phản quang của mình tạo nên sự ảo
hoá hiện tượng. Sân khấu rối nước luôn đầy ắp sắc hình trời, mây, cây,
cảnh… chuyển đổi khôn lường in trên mặt nước làm nền cho nhân vật “rối”
hoạt động. Trên “chiếc gương” này, tất cả đều lung linh, mềm mại, uyển
chuyển, biến hoá liên tục trước mắt người xem. Những gì là thô cứng,
nghèo nàn của đường nét, màu sắc, cử động ở quân rối đều trở nên sinh
động, phong phú.
Nước ẩn giấu trong lòng tất cả mọi bí
mật của trò rối. Người xem trên bờ thấy quân rồi chợt hiện, chợt
ẩn,tiếng trống, tiếng pháo,…lúc mềm mại, dịu dàng, uốn lượn… Xem rối
nước là ngồi ngoài trời, trực tiếp với thiên nhiên. ở đây tất cả đều
thực, giác quan con người đều có thể cảm thụ được. Nhưng chính giữa
những cái quá quen này, trò rối biểu hiện cho tài năng sáng tạo , ngợi
ca sự chiến thắng thiên nhiên của con người,…
Rối nước vừa thực vừa hư, vừa sân khấu
vừa cuộc đời, gắn bó với nhân dân Việt Nam như cây đa, bến nước, lời ru,
cánh cò,… Sân khấu rối nước là sân khấu hội hè, lưu giữ nhiều sáng tạo
nghệ thuật dân gian, kỹ thuật cổ xưa và nhiều sinh hoạt tinh thần, tập
tục, lao động vật chất của cư dân trồng lúa nước Việt Nam trong quá
trình dựng nước và giữ nước từ hàng nghìn năm nay.
Chương trình tiết mục rối nước khá phong phú :
– Các trò ca ngợi cái thú làm ruộng, chăn vịt, đánh cá, dệt cửi, xay lúa, giã gạo ….
– Các trò vui chơi giải trí lành mạnh bổ ích như đấu vật, đưa ngựa, đánh đu, leo cây, lộn thang, múa lân, múa rồng, đánh kiếm…
– Các tích trò nêu gương anh hùng dân tộc như Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê
– Các vở chèo,vở tuồng như Thị Mầu lên chùa, Lưu- Nguyễn nhập Thiên thai, Tây du, Sơn Hậu, Tam quốc …
Tiết mục rối nước ngắn gọn, phản ánh một cách ước lệ nhưng chân thực cuộc sống lao động sản xuất và chiến đấu của người Việt
Trò xưa thường diễn không lời, khi nền văn học dân tộc phát triển đã đem đến cho các tiết mục rối nước thêm lời giáo, lời hát.
Quân rối nước được tạo hình bằng loại gỗ
nhẹ, dai thớ như cây sung, vông … vốn rất sẵn quanh các bờ ao và sơn
bằng nhựa cây sơn (rahus succédanéa) chuyên dùng sơn thuyền được trồng
nhiều ở vùng trung du phía Bắc. Quân rối điều khiển từ xa bằng hai loại
máy: dây và sào với các bàn máy đơn giản hay phức hợp, các hệ thống cọc,
các dây lớn dây nhỏ, dây cứng dây mềm, các sào gỗ, sào tre…
Nghệ nhân rối nước phải đứng ngâm nửa
mình trong bùn nước sau mành của buồng trò điều khiển quân rối… Xưa rối
nước thường diễn ban ngày và chủ yếu với nhạc gõ như trống, mõ, phèng
la, não bạt, … và các âm thanh mạnh như pháo, ốc, tù. Lời giáo, lời trò
đều lấy từ ca dao, dân ca,… hay trích trong các vở kịch hát dân tộc. Sân
khấu rối nước gọi là Thủy đình , được dựng ngoài trời, gồm:
– Một: Buồng trò – dựng giữa ao, hồ, che kín, có mành treo cửa trước che nghệ nhân đứng sau điều khiển.
– Hai: Sân khấu – khoảng mặt nước trước
mành dài rộng 4m x 4m, hai bên có lan can thấp kéo từ hai nhà nanh hai
bên, nơi quân rối hoạt động.
– Ba: Nơi người xem – khoảng bờ, bãi, sân trước và hai bên sân khấu dưới bóng cây trồng quanh ao, hồ…
Thủy đình rối nước là phần địa điểm chủ
yếu của ngày hội, trong khu vực diễn ra các trò vui như đánh vật, chọi
gà,… nơi trưng bày nghi tiết hội (cờ, lọng, tàn, quạt, trống, chiêng,
phướn, nêu, đèn,…), nên người xem rối nước đắm mình trong không khí náo
nức, rộn rã, tưng bừng, … và quang cảnh rực rỡ, mời gọi, … của hội
hè…. Chứng cứ bằng văn tự đầu tiên ghi chép về múa rối nước Việt Nam mà
chúng ta đọc được là bia tháp Sùng Thiện Diên Linh dựng năm 1122 (tương
đương với thời Tống, Trung Quốc) trong đó, có đoạn viết về Kim Ngao,”ở
giữa sóng, một con rùa vàng nổi, lưng đội ba hòn núi. Rùa lội rù rờ trên
mặt nước, lộ vân trên vỏ và rè bốn chân. Chuyển mắt nhìn lên bờ, miệng
thì phun nước lên bến. Quay đầu hướng tới ngai vua mà cúi đầu
chào…” (Dẫn theo Hoàng Xuân Hân – Lý Thường Kiệt, tập II)
Chúng ta đều biết các vua nhà Lý rất
sùng Phật và ưa thích điềm lạ, đặc biệt là những chuyện rồng lên, rồng
hiện, rồng ấp, rồng nằm. Niên hiệu của các vua Lý cũng vương vấn
ít nhiều đến con rồng : Long Thụy Thái Bình, Long Chương thiên tự, Long
Phù Nguyên Hoá, Chính Long Bảo ứng, Trị Bình Long ứng … Thậm chí vào đời
Lý Thánh Tông, có người dâng voi trắng, nhà vua bèn đổi niên hiệu là
Thiên huống bảo tượng (trời cho voi báu). Từ năm 1010 đến năm 1225
triều Lý, rất nhiều lần các quan và trăm họ tiến dâng lên các loại rùa
ba chân, sáu mặt, rùa năm sắc, rùa trắng … Lại có cả những con rùa trên
mai có chữ như : Thiên thư họ thị thánh nhân vạn tuế, Nhất thiên vĩnh
thánh, Vương dĩ công pháp, Vương dĩ bột phương, Thiên tử vạn niên … vậy
mà các vua Lý vẫn chẳng lấy thế làm điềm lạ, vẫn chỉ xếp các loại rùa ấy
vào hạng tầm thường như chim sẻ trắng, hươu trắng, hươu đen, trâu thay
rằng, nhựa nhiều cựa …
Trong khi các vua quý trọng rồng thì dân
gian lại yêu thích rùa. Vì trong tâm thức nhân dân, còn rùa tuy chậm
chạp nhưng gan góc, ở nước cũng được, ở cạn cũng được, chịu được đói,
chịu được khát, có thể mang trên mình được sức nặng lớn, lại sống lâu.
Rùa vàng (Kim Quy) lại mang trong mình
nó lời phán truyền của thần linh về lịch số :”Thời Đào Đường, nước Việt
thường dâng con thần Quy nghìn tuổi, trên lưng có nét chữ khoa đẩu, ghi
chép từ thời mở đóng (vũ trụ hình thành) đến nay, vua liền sai chép lấy,
gọi là lịch rùa” (Từ Hải, mục từ Quy lịch)
Đào Đường (2357 – 2258 TCN) là thời
Nghiêu Thuấn, Việt Thường là một bộ nằm trong nước Văn lang thời cổ đại.
Khoa đầu nghĩa đen là con nòng nọc, chữ khoa đẩu là loại chữ đơn giản
rất xưa, lúc đầu dùng để ghi ngày, về sau, dùng ghi năm và tính lịch.
Những điều ghi chép trên chứng tỏ rằng thời xa xưa, trong các loại vật
thường gặp, con rùa vàng đã được nhân dân ta nâng lên hàng linh vật ,
nó luôn gắn bó với con người và dần dần trở thành thần bảo vệ của đất
nước (xem chuyện An Dương Vương xây thành ốc và Triệu Quang Phục làm mũ
đậu mâu). Rùa trở thành Thanh Giang thần (lễ hội làng Nhội, Thụy Lôi,
Đông Anh, hàng năm vẫn có lệ rước thần này). Con rùa vàng được miêu tả
trong bia tháp Sùng thiên điện linh chính là hình tượng rùa vàng còn
soát lại sau hơn một nghìn năm là bạn và là thần linh của dân Việt. Khi
nhà Lý lên, sùng bái rồng, thì dân ta đem hình thức nghệ thuật có sẵn
ra mừng vua mới theo tinh thần “có gì vui nấy”, chưa đưa ngay hình tượng
rồng vào hầu vua được. Các vị vua mê đắm con rồng này, cũng chấp nhận
được một dâu hiệu của lòng thành kính. Sự có mặt của rồng vàng trong
múa rối nước thời ấy là một bằng cớ chứng tỏ rằng hình thức nghệ thuật
này có thể xuất hiện từ rất lâu rồi. Trong ba dạng hoạt động trên, quân
rối mới chỉ làm trò, nặng về giải trí – vui chơi. Ở đây các nghệ nhân
rối đã tận dụng con diều, cây pháo… diễn trò rối trong phạm vi hạn
chế. Dạng sân khấu mới là nơi tung hoành rộng rãi của sự nỗ lực, sáng
tạo rối.
Rối nước có mặt ở hầu khắp các tỉnh
thành vùng đồng bằng và trung du sông Hồng, gắn bó mật thiết với đời
sống vật chất và tinh thần của cư dân trồng lúa nước. Xưa nay, cứ mỗi
khi trong các nhà thuỷ đình (hay buồng trò) rối nước giữa các ao hồ phát
ra tiếng trống, tiếng pháo, … báo hiệu có buổi biểu diễn là người lớn –
trẻ em, ông già – bà lão, trai thôn Thượng – gái thôn Đoài nô nức trẩy
về thưởng thức cái hay, cái lạ của trò rối nước .
Ở Việt Nam rối nước là loại múa rối độc
đáo đã có ngót 1000 năm ; sân khấu là các ao hồ đầy nước, con rối làm
bằng gỗ nhẹ, được điều khiển từ các buồng ngay cạnh sân khấu bằng các bộ
dây và sào dấu ngầm dưới nước. Người điều khiển phải ngâm mình dưới
nước để điều khiển. Vì sân khấu là mặt nước lại được ngăn cách với buồng
điều khiển bằng một bức màn mỏng, cho nên người xem không thể thấy
người điều khiển, mà chỉ thấy các con rối đang biểu diễn. Cái độc đáo
của sân khấu rối nước là con rối cử động được không chỉ nhờ những bộ
dây, sào, mà còn nhờ sức nước tác động và thông qua các bánh lái và phao
để được lắp đặt trong “bộ máy” điều khiển các con rối.Trong nghệ thuật
múa rối, nghệ thuật tạo hình là nghệ thuật chủ chốt. Vẻ mặt, hình dạng
và y phục của con rối biểu hiện cá tính, đồng thời nó thể hiện cả giới
tính, lứa tuổi, hạng người nào trong xã hội, v.v….
Những hành động của con rối không phải
hoàn toàn do người điều khiển muốn làm là được mà chủ yêú phải được kỹ
thuật tạo hình quyết định trước. Nhiều khi ý đồ của tác giả và đạo diễn
được thông qua tài năng của họa sĩ tạo hình và người làm con rối mới dẫn
đến hiệu quả biểu diễn. Ví dụ : Khả năng của con rối không thể hiện
được sự thay đổi nét mặt mà luôn luôn cố định, tác động của nó chậm
chạp, không tự nhiên vì vậy phải tạo cho con rối có cái “duyên” riêng và
làm sao thể hiện được trong tạo hình bộ măt có tính điển hình nhất của
cá tính nhân vật. Nhân vật chú Tễu trong nghệ thuật rối Việt Nam có hình
dáng béo tròn, phốp pháp, vận khố, mặc áo phong phanh, cổ đeo khánh
bạc, tóc để trái đào, nụ cười luôn nở trên môi duyên dáng, lạc quan có
lúc như châm chọc, có lúc như cảm thông …
Với cách tạo hình, trang trí như vậy chú
Tễu là nhân vật gần như nhân vật hề chèo ở sân khấu rối, chú Tễu cũng
dùng tiếng cười để nhận thức cuộc sống, đả kích và trào lộng những điều
chướng tai gai mắt …. Đây là sáng tạo tuyệt vời của các nghệ nhân dân
gian trong các phường rối, nó là sự gia công không chỉ của các ông thợ,
mà tập thể các nghệ nhân điêu khắc, sơn màu đến những người điều khiển …
Nhờ vậy mà loại nhân vật này xuất hiện đã khắc hoạ được nét điển hình
nhất của các vai “Hề” trong đời sống, để lại ấn tượng sâu sắc cho người
xem.
Do đặc điểm của mỗi dân tộc , múa rối là
sân khấu của những con rối không biết cử động, chỉ là công cụ nghệ
thuật của nghệ sĩ múa rối, cho nên trong việc tạo nên nhân vật, sân khấu
múa rối thiên về khắc hoạ ngoại hình, thể hiện các cử chỉ, mình động mà
ít dừng lại ở diễn biến tâm lý, mổ xẻ nội tâm. Và các nhân vật thường
không xây dựng một cách hoàn cảnh, đa dạng về lai lịch, quá trình phát
triển cũng như kết thúc cuộc đời. Trong một vở diễn, nhân vật xuất hiện
không nhiều . Câu chuyện thường phát triển quanh các nhân vật chính. Vì
vậy, những nhân vật chính này có vai trò quan trọng trong việc truyền
đạt nội dung tác phẩm …
Mời bạn đọc tìm hiểu thêm về các Trò chơi, múa, hội diễn và sân khấu dân gian Việt Nam tại đây:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét